Sử dụng gạch không nung, từ chính sách đến thực tiễn

Sử dụng gạch không nung, từ chính sách đến thực tiễn
Ngày đăng: 10/04/2020 07:53 AM

    Có thể thấy, việc tăng tỷ lệ sử dụng gạch không nung (GKN) trong ngành vật liệu xây dựng so với gạch nung (gạch đỏ) là xu thế tất yếu của các nước trên thế giới. Tại Việt Nam gần thập kỷ qua, Dự án “Tăng cường sản xuất và sử dụng GKN ở Việt Nam” đã lan tỏa từ chính sách pháp luật đến thực tiễn đời sống, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những bất cập cần giải quyết từ chính sách.

     

    Phát triển vật liệu xây dựng không nung là một chủ trương đúng đắn, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những bất cập cần giải quyết từ chính sách (ảnh Hải Đăng)

    Từ chính sách… đến thực tiễn

    Có thể thấy, từ nhiều năm nay, phát triển vật liệu xây dựng không nung (VLXDKN) là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ nhằm giữ gìn và bảo vệ môi trường, tuy nhiên kết quả từ Chương trình phát triển VLXDKN như thế nào thì cần có sự nhìn nhận đúng đắn.

    Ngày 28/11/2012, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 09/2012/TT-BXD quy định sử dụng VLXDKN trong các công trình xây dựng. Theo đó, các công trình xây dựng được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước bắt buộc phải sử dụng VLXDKN theo đúng lộ trình.

    Để thế cho gạch đỏ, hiện nay, việc khuyến khích sử dụng các sản phẩm GKN đã được quy định trong nhiều chính sách như: Chương trình phát triển VLXDKN theo Quyết định số 567/QĐ-TTg; Quyết định 1469/QĐ-TTg Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Thông tư số 13/2017/TT-BXD quy định sử dụng vật liệu xây không nung trong các công trình xây dựng; Chỉ thị số 10/CT-TTg tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung và hạn chế sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung…

    Đặc biệt, với mục tiêu cắt giảm tỷ lệ tăng hàng năm mức phát thải khí nhà kính bằng việc tăng cường sản xuất, mua bán và sử dụng GKN ở Việt Nam, từ năm 2014 - 2019, Bộ Khoa học & Công nghệ và Bộ Xây dựng đã thực hiện Dự án “Tăng cường sản xuất và sử dụng GKN ở Việt Nam” do Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tài trợ từ nguồn vốn của Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) và các nguồn đồng tài trợ khác với mục tiêu cắt giảm tỷ lệ tăng hàng năm mức phát thải khí nhà kính bằng cách giảm dần việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và đất màu để làm gạch thông qua việc tăng cường sản xuất, mua bán và sử dụng GKN ở Việt Nam.

    Một công trình sử dụng gạch không nung ở Hà Tĩnh (ảnh TM)

    Việc sử dụng VLXDKN có thể giúp tiết kiệm đất nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường, giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành Công nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành các quy định với hành lang pháp lý, chính sách đủ “dày”, tuy nhiên việc áp dụng quy định mang tính đại trà, khiến một số địa phương gặp khó khăn trong việc phát triển VLXDKN.

    Ghi nhận từ địa phương

    Theo ghi nhận tại tỉnh Thái Bình, để tăng cường quản lý VLXDKN trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc sản xuất, sử dụng VLXDKN trong các công trình xây dựng từ khâu lập, thẩm định, phê duyệt dự án, thiết kế; đấu thầu, thi công, giám sát thi công xây dựng.

    Công trình trường Tiểu học Kim Giang (quận Thanh Xuân, Hà Nội) sử dụng GKN trong thi công xây dựng.

    Theo Sở Xây dựng tỉnh Thái Bình, trong quá trình thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, cơ quan chuyên môn về xây dựng đã yêu cầu chủ đầu tư tuân thủ các quy định về sử dụng VLXDKN.

    Tuy nhiên, do bị chi phối bởi giá thành, một số nhà thầu thi công xây dựng vẫn trà trộn VLXDKN của các đơn vị sản xuất thủ công chưa thực hiện đánh giá chất lượng sản phẩm, chứng nhận và công bố hợp quy cho sản phẩm, chưa tuân thủ quy định của pháp luật về việc kiểm soát chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra tiêu thụ trên thị trường theo quy định. Sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn tiêu thụ ra thị trường, làm ảnh hưởng đến chất lượng của VLXDKN nói chung.

    Việc kiểm tra, giám sát tại các cơ sở sản xuất VLXDKN trên địa bàn tỉnh được Sở Xây dựng tiến hành theo Kế hoạch số 13/KH-SXD, số 06/KH-SXD. Kết quả cho thấy, các đơn vị sản xuất VLXDKN chưa duy trì việc đánh giá, giám sát hàng năm thông qua việc thử nghiệm mẫu lấy tại nơi sản xuất hoặc lấy trên thị trường kết hợp với đánh giá quá trình sản xuất. Hầu hết các đơn vị sản xuất chưa xuất trình được hồ sơ chất lượng của vật liệu đầu vào xi măng, cốt liệu, phụ gia. Phần lớn các đơn vị sản xuất chưa thực hiện việc công bố tiêu chuẩn áp dụng.

    Những vướng mắc trong quá trình quản lý tại tỉnh Thái Bình có thể thấy rõ là do nguồn vốn hạn chế, các nhà đầu tư vừa và nhỏ khó khăn khi lựa chọn dây chuyền công nghệ. Các dây chuyền được nhập khẩu hoàn toàn, công nghệ tự động, đồng bộ cho sản phẩm có chất lượng ổn định thì giá thành cao; các dây chuyền được sản xuất trong nước thì không đồng bộ nên hay trục trặc, kinh phí để sữa chữa, duy trì lớn; công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và tiếp thu công nghệ chưa tốt, các nhà máy phải vừa sản xuất vừa điều chỉnh, khắc phục các khó khăn về kỹ thuật nên sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không ổn định gây khó khăn cho công tác quản lý.

    Sở Xây dựng tỉnh Thái Bình cũng nêu vấn đề: Đối với gạch bê tông, phần lớn các hộ cá thể đầu tư thiết bị sản xuất ra sản phẩm thủ công, chưa thực hiện đánh giá chất lượng sản phẩm, chứng nhận và công bố hợp quy cho sản phẩm, chưa tuân thủ quy định của pháp luật về việc kiểm soát chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra tiêu thụ trên thị trường theo quy định. Do đó, sản phẩm sản xuất ra cung cấp cho thị trường có chất lượng không đồng đều, các sản phẩm sản xuất thủ công được trà trộn cùng các sản phẩm sản xuất trên dây chuyền hiện đại để đưa vào công trình, không đảm bảo chất lượng cho công trình xây dựng làm ảnh hưởng đến uy tín của sản phẩm trên thị trường.

    Các đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng thuộc nhóm buộc phải chứng nhận và công bố hợp quy khi áp dụng phương thức 5 để đánh giá hợp quy, quy định nhà sản xuất phải có Chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001. Việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 mất nhiều thời gian và chi phí, điều này gây nhiều khó khăn cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá vật liệu xây dựng, đặc biệt là các tổ chức mới thành lập.

    Số lượng tổ chức được Bộ Xây dựng chỉ định và thừa nhận thực hiện việc đánh giá và chứng nhận hợp quy còn hạn chế, đa số tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn, trên địa bàn tỉnh Thái Bình chưa có tổ chức nào được thừa nhận, điều kiện để các tổ chức được thừa nhận thực hiện đánh giá và chứng nhận hợp quy khó thực hiện, gây ra khó khăn cho các đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng khi tiến hành chứng nhận và công bố hợp quy.

    Ông Trịnh Nam Hưng - Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hải Dương cho biết: “Tại tỉnh Hải Dương hiện có 4 doanh nghiệp sản xuất gạch không nung với các sản phẩm và công suất thiết kế như sau: Gạch bê tông xi măng - cốt liệu có 3 cơ sở quy mô lớn với tổng công suất thiết kế 79,2 triệu viên QTC/năm, khoảng 50 hộ gia đình với tổng công suất hàng năm đạt 34,5 triệu viên QTC/năm. 1 cơ sở gạch bê tông khí chưng áp AAC công suất thiết kế 142,2 triệu viên QTC/năm; Vữa cho bê tông nhẹ công suất thiết kế 60.000 tấn/năm đều đạt tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn Việt Nam. Ngoài ra còn có 12 dự án chuẩn bị đầu tư với công suất thiết kế đạt 473,2 triệu viên QTC/năm”.

    Mặc dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng đến nay tình hình triển khai Chương trình phát triển VLXDKN vẫn còn nhiều bất cập. VLXDKN chưa được ứng dụng rộng rãi do nhiều nguyên nhân như: Thói quen dùng gạch của các chủ đầu tư và người tiêu dùng; giá thành sản phẩm gạch không nung còn cao so với gạch đất sét nung; đội ngũ công nhân có tay nghề, sử dụng thành thạo các công cụ chuyên dùng khi thi công các sản phẩm vật liệu xây không nung còn thiếu. Đáng chú ý, các đơn vị sản xuất VLXDKN chưa tiếp cận được các chính sách ưu đãi trong đầu tư phát triển VLXDKN, các nhà đầu tư chưa quan tâm đến việc sử dụng vật liệu mới trong công trình xây dựng.

    Sở Xây dựng tỉnh Hải Dương có kiến nghị Bộ Xây dựng tổ chức rà soát, đánh giá thực trạng các công trình đang sử dụng vật liệu xây không nung của từng loại: Thấp tầng, cao tầng, công trình hạ tầng kỹ thuật… để ban hành các quy định sử dụng vật liệu xây cho phù hợp. Nghiên cứu sử dụng vật liệu xây không nung tại từng vị trí công trình cho phù hợp. Sau khi rà soát, đánh giá nguyên nhân, xem xét chỉnh sửa các tiêu chuẩn về gạch xây dựng không nung để khắc phục một số vấn đề phát sinh liên quan đến chất lượng công trình như đã nêu trên. Tiêu chuẩn chỉ dẫn cụ thể tại từng vị trí xây dựng (bao che, ngăn chia) để tư vấn thiết kế, đơn vị thi công dễ áp dụng.

    Không chỉ vậy, Sở Xây dựng tỉnh Hải Dương kiến nghị Bộ Xây dựng xem xét xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây không nung để cải thiện công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản xuất. Hiện tại, tại địa bàn tỉnh Hải Dương, giá thành gạch đặc không nung cao hơn gạch đặc nung (kích thước viên tương tự) từ 20 - 30%, trọng lượng khối xây lớn hơn khối xây gạch không nung dẫn đến phát sinh chi phí đầu tư.

    Trái ngược với những vướng mắc tại Hải Dương và Thái Bình, công tác quản lý, sử dụng VLXDKN tại Bình Thuận đạt nhiều hiệu quả tích cực. Các công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước đều sử dụng 100% gạch không nung. Bên cạnh đó, hiện nay một bộ phận không nhỏ người dân đã sử dụng gạch không nung với loại kích thước giống gạch nung cho công trình nhà ở, kho xưởng, tường rào... Do đó, trong thời gian tới, việc đầu tư, sản xuất gạch không nung ở tỉnh Bình Thuận sẽ phát triển mạnh và đáp ứng nhu cầu cho các công trình xây dựng.

    Ông Trần Đức Minh - Trưởng phòng QLXD và HTKT (Sở Xây dựng tỉnh Bình Thuận) thông tin: “Tính đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có 8 đơn vị đang sản xuất gạch xi măng cốt liệu (block bê tông) sử dụng nguyên liệu đá mạt (đá mi) với tổng công suất khoảng 150 triệu viên/năm; từ năm 2018 đến tháng 3/2019, có 3 dự án sản xuất gạch không nung (sử dụng nguyên liệu xỉ than) đã được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư đang triển khai thủ tục xây dựng tại khu vực có các nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân. Ngoài ra, có 4 đơn vị lập thủ tục đăng ký đầu tư dự án nhà máy sản xuất gạch không nung tại Sở Kế hoạch và Đầu tư”.

    Ghi nhận tại Quảng Ninh, tại đây người dân không “mặn mà” với việc sử dụng VLXDKN. Hiện Quảng Ninh có 6 nhà máy nhiệt điện than, nhưng chỉ có tro xỉ của nhà máy nhiệt điện Mạo Khê là được tận dụng làm gạch không nung và là nguồn nguyên liệu chính của máy gạch Thanh Tuyền.

    Các nhà máy gạch không nung khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chủ yếu sử dụng mạt đá, xi măng và cát, ép rung cường độ thấp, cơ bản chưa hợp quy. Công nghệ đó đã lạc hậu và chất lượng không cao. Viên gạch sau khi được sản xuất có độ ngậm nước cao, nặng tường, cường độ chịu lực yếu, lớp sơn bên ngoài nhanh hoen ố bong chóc. Một bệnh viện ở địa phương vừa xây xong, treo chiếc quạt lên tường đã rụng, không thể lắp đặt được các thiết bị y tế. Vì vậy, người sử dụng công trình phải khoét từng ô tường để gia cường bằng vật liệu khác có khả năng chịu lực cao hơn, mới gá lắp được thiết bị treo tường. 

    Zalo